Bi hài chuyện hai anh em ruột lấy chung một vợ
Xã hội Huế – Hôm nọ lang thang ở đại ngàn Trường Sơn, tôi gần như không tin vào tai mình khi nghe một “người dẫn đường” thầm thì: “Ở xã Hồng Kim, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên-Huế có hai anh em ruột lấy chung một vợ. Họ sống với nhau rất hạnh phúc và đến nay đã sinh được 11 người con chung. Có muốn đến gặp không?”. Tất nhiên là tôi không thể nào bỏ lỡ cơ hội tiếp cận với một chuyện tình nghe như thể từ thời phong kiến cách đây mấy trăm năm bỗng dưng đội mồ đứng dậy này…
Bà Căn Y (đội nón) và ông Tua (thứ hai từ trái qua) cùng một số con trai và con rể trong gia đình. Ảnh: Chân Nhân
Ngôi nhà bằng gỗ khá tươm tất của gia đình anh em ông Tuol – nhân vật chính của câu chuyện chung vợ – nằm cách trụ sở UBND xã Hồng Kim chừng 200m. Trên chiếc chiếu trải ngay giữa nền gian nhà chính, ông Hồ Văn Tuol, già hơn nhiều so với tuổi 70, bỏ đàn, kết thúc một bài hát có giai điệu rất buồn bằng tiếng Pa Cô vừa lúc khách đến. Ngoài sân sau, ông Hồ Văn Tua, 66 tuổi – người em đang cùng cây rựa loay hoay với mấy bụi mía. Không giống với hình dung của chúng tôi về một sự ngại ngùng, xa lánh… khi lần đầu tiên nghe một nửa cán bộ dân số xã Hồng Kim kể về chuyện này, việc tiếp xúc với gia đình hai anh em ông Tuol và Tua khá suôn sẻ.
Mối tình lầm lỗi
Chúng tôi nói chưa xong mục đích cuộc viếng thăm, ông Tuol đã với gọi vợ mình – bà Căn Y đang lúi húi dưới bếp cùng em trai, cũng là chồng thứ hai của bà Căn Y vào ngồi nói chuyện. Một cảm giác rất khó tả khi nghe cả hai ông bảo bà Căn Y kể cho nhà báo nghe, chứ có nhiều chuyện bây giờ họ không nhớ. Ông Tuol thật thà: “Giờ già rồi nhìn hắn rứa, chứ ngày xưa, hắn đẹp nhất vùng này”. Ông kể ngày đó, đêm nào trai bản từ khắp nơi cũng kéo về nhà bà Căn Y đông vui như hội, nhưng bà không yêu ai hết.
Năng khiếu đàn hát của ông Tua đã đưa ông và chị dâu đến một mối tình lầm lỗi (ảnh nhỏ trên). Ảnh: Chân Nhân
Rồi đến cao điểm của cuộc chiến chống Mỹ, bà Căn Y tham gia lực lượng du kích địa phương, vận chuyển lương thực tiếp tế cho bộ đội. Trong những ngày băng rừng vượt suối làm nhiệm vụ, bà đã gặp, yêu thương và nên vợ chồng với ông Tuol, lúc đó là bộ đội. Tuy vậy, niềm vui chồng vợ của họ chỉ tính bằng ngày bởi những năm tháng đó, nhà của ông là ngoài chiến trường, để lại bà Căn Y mòn mỏi ở nhà chồng xa lạ với một cuộc sống mới.
Ông Tua, thời điểm đó là một giáo viên công tác ngay tại địa phương và cùng ở chung nhà với chị dâu. Là người có biệt tài đàn giỏi hát hay, lại là một trí thức nên ông Tua được rất nhiều cô gái trong vùng để ý. Tuy nhiên, ông Tua lại phớt lờ tất cả, không thèm để ý đến ai, bởi lúc đó, trong lòng ông chỉ có mỗi cô gái đẹp nhất là… chị dâu mình.
Tình yêu và sự xốc nổi của ông Tua, những tháng ngày cô quạnh của một người con gái vừa mới lấy chồng như bà Căn Y cứ đánh đu như vậy hết ngày này sang tháng khác và cuối cùng, chuyện gì đến cũng đã đến: Họ không còn là chị dâu, em chồng.
Ngạc nhiên là sau khi biết chuyện tình cảm giữa vợ và em trai mình sau đó 3 năm, ông Tuol không hề ghen tuông, giận dữ… như lẽ thường mà lại hết mực vun đắp cho tình yêu của hai người. Ông Toul dẫn em trai Tua đến nhà bố mẹ bà Căn Y xin bố mẹ vợ cho em trai mình ăn nắm xôi (một nghi lễ khi gả con gái của người Pa Cô) để chính thức trở thành chồng của bà Y. “Bố mẹ Căn Y đồng ý cho em mình ăn nắm xôi và sau đó em mình trở thành người chồng thứ hai của con gái họ” – ông Tuol nhớ lại. Ông Tua xấu hổ gãi đầu, nói “kể nghe rứa thôi chứ lúc đó sóng gió lắm” vì chuyện của họ làm xôn xao cả vùng. “Không thấy ai đồng ý cả mà chỉ thấy toàn người phản đối vì cho rằng đây là việc làm vi phạm nghiêm trọng luân thường đạo lý thôi” – ông kể.
Cả hai ông bố đều không biết ai là con mình
Khi ông Tua lấy bà Căn Y và sinh đứa con đầu lòng, già làng Quỳnh Đồng lập tức họp dân bản để bàn về chuyện động trời chưa từng xảy ra đối với cộng đồng dân tộc người Pa Cô từ bao đời nay. Nhiều dân bản đưa ra lý lẽ rằng, lâu nay, người PaKô dù ít xảy ra, vẫn chấp nhận một người đàn ông lấy hai vợ, hoặc một người đàn bà lấy hai chồng nhưng không thể lấy hai anh hoặc chị em ruột khi cả hai đang còn sống. Một số người “bênh vực” với lý lẽ: Ông Tua đã trót yêu và lấy Căn Y rồi, không thể chia cách được, nhưng ông Tua phải chịu hình phạt thích đáng. Hình phạt cuối cùng được già làng Quỳnh Đồng đưa ra là ông Tua nộp một con lợn, một con dê để cúng Giàng và thần linh để thần linh không bắt tội và để dân làng được ăn những con vật ấy.
Sau ngày bà Căn Y sinh đứa con đầu lòng tên Xuân không lâu thì đất nước thống nhất. Ông Tuol trở về quê bươn chải mưu sinh với nương rẫy, còn ông Tua tiếp tục sự nghiệp dạy chữ ở gần nhà. Thỉnh thoảng người dân địa phương bắt gặp cảnh bà Căn Y đi với làm với ông Tuol vài ngày, rồi lại đi cùng ông Tua vài bữa. Thời gian đầu, người dân rất ái ngại khi chứng kiến cảnh tượng cười ra nước mắt này, nhưng rồi gặp nhiều thành quen.
Rồi bà Căn Y tiếp tục sinh ra 9 người con nữa. Tất cả đều lớn lên bình thường và khoẻ mạnh. Đặc biệt, chính bà cũng không thể biết trong số 10 người con mà mình sinh ra ai là con của ông Tuol và ai là con của ông Tua. “Không còn cách nào khác, gia đình mình đã thống nhất cách gọi cho các con. Ông Tuol là anh nên được mấy đứa gọi là bố, còn ông Tua là em nên các con gọi là… chú” – bà Căn Y thành thật kể. Ấy vậy nhưng hôm gặp chúng tôi, ông Tua khoe: “Con của bố cả đó. Con Lý (Hồ Thị Lý) là con thứ hai, làm dâu ở Hồng Trung mà tuần mô cũng về thăm bố. Thằng Sơn là con út đang đi học…”.
Rồi ông kể về tính cách và cuộc sống của những Lành, Lai, Lê, Kên, Sâm, Sang, Sơn…, những người con mà ông không thể biết được ai là con thực sự của mình, thi thoảng mắt ánh lên những vệt buồn như thể chúng được chất chứa trong lòng từ lâu lắm. Ôn”g nói “bố ước mơ một ngày được các con gọi một tiếng bố như chúng nó vẫn thường gọi với anh trai mình” mà không thể. Chị Hồ Thị Lý, người con thứ hai, có rất nhiều điểm giống ông Tua. Cả ông Tua và chị Lý đều tin chắc họ là cha con ruột nhưng họ không thể phá bỏ lời hứa với bà Y để xưng hô bố con. “Đã nhiều lần mình hỏi vợ cặn kẽ để mong biết được đứa nào là con của mình nhưng Căn Y không thể nhớ được” – ông Tua buồn bã. Chị Lê Thị Bảo, vợ của người con trai cả thì kể rằng, những ngày mới về làm dâu, nhiều lần chị gọi ông Tua là bố nhưng ông Tua lại bảo không nên gọi vậy vì sợ ông Tuol buồn!
Bà Căn Y kể rằng, từ khi bà trở thành vợ chung của hai anh em ông Tuol, chưa bao giờ bà thấy giữa hai người này xảy ra xích mích hay lời qua tiếng lại. Hai người chồng của bà lúc nào cũng cư xử với nhau rất hoà thuận, luôn kính trên nhường dưới. Tình cảm không hề sứt mẻ của anh em ông Tuol khiến bà con trong thôn bản ngỡ ngàng. “Nếu không có tình cảm anh em thương yêu nhau hết mực thì gia đình mình tan vỡ từ lâu lắm rồi chứ không thể yên ấm đến ngày hôm nay” – bà Căn Y nói. Hỏi bí quyết, bà cười: “Mình là người vợ của hai chồng nên phải biết chia sẻ tình cảm cho hai người công bằng, phải yêu thương hai người chồng như nhau. Chỉ cần thiên vị tình cảm cho một bên thì sẽ khó giữ được hạnh phúc gia đình”.
Trò chuyện với chúng tôi, cả hai anh em ông Tuol đều rất hối hận về việc lấy chung vợ của mình. “Chuyện mình lấy vợ của anh trai là một sai lầm khó có thể tha thứ, nhưng dù sao cũng xảy ra rồi. Chừ mình chỉ còn có thể đối xử thật tốt với anh để mong anh xoá được vết thương lòng ngày nào” – ông Tua nghẹn giọng. Ông nói, điều ông mong muốn hiện nay là 10 người con ngày càng khôn lớn, trưởng thành và nhất là không lặp lại sai lầm như bố mẹ mình.
Chị Hồ Thị Dập, cán bộ UBND xã Hồng Trung cho biết: Trước khi lấy chồng, chị ở cùng làng nên biết rất rõ chuyện hai anh em cùng lấy bà Căn Y và sinh được 11 đứa con. Lần đầu tiên trong đời chị thấy chuyện này và đây là trường hợp duy nhất tại A Lưới. “Thời phong kiến thì mới có chuyện này. Ngày nay, chỉ có thể người anh chết đi thì người em có thể được lấy người vợ của anh. Đây là một câu chuyện mang tính lịch sử đã rồi. Ngày nay chúng ta chỉ kể để biết và rút ra bài học chứ không nên phán xét, bởi đúng hay sai gì thì chuyện cũng đã xảy ra” – chị nó.
Nguồn: laodong.com.vn