Hiền hòa những ngôi chùa làng
Văn hóa Huê – Ở vùng đất Cố đô, khi Chúa Nguyễn Hoàng vào xứ Thuận Hóa đã mang theo tinh thần của Phật giáo, hễ đi đến đâu cũng đều lập chùa. Ban đầu, ngôi chùa làng chỉ là một ngôi nhà nhỏ, được dựng bằng tranh tre nứa lá, và mãi đến sau này, ngôi chùa làng mới được xây dựng kiên cố với những trang trí rồng, được đắp nổi sành sứ. Ngôi chùa làng đều được xây dựng ở những nơi có thế đất tốt, nằm ở vị trí đầu làng hay ở giữa làng. Vào thời nhà Nguyễn còn có chỉ dẫn cụ thể về việc xây dựng chùa.
Theo đó, “việc xây dựng chùa phải chọn đất, ngày, giờ tốt. Theo quan niệm, đất tốt là nơi bên trái trống không hoặc có sông- ao hồ ôm bọc. Phía trước mặt chùa có minh đường hay không có minh đường cũng được nhưng phía sau không nên có núi áp kề, ấy là thế đất tốt”. Các nhà nghiên cứu văn hóa Trần Đại Vinh cho rằng “Chùa làng là loại chùa công có mặt sớm nhất ở Huế đã trước bạ với tên xứ đất này. Vào thời Mạc, ở Huế đã có hai ngôi chùa nổi tiếng được sử sách ghi nhận: chùa Sùng Hóa và chùa Thiên Mụ. Nhưng, giữ vai trò quan trọng trong sinh hoạt tôn giáo và văn hóa xã hội của làng quê xứ Huế nói riêng, phải là ngôi chùa làng, bởi đó là ngôi chùa của một cộng đồng cư dân đã cùng chung khai phá một vùng đất, và cố kết nhau trong một sinh hoạt tâm linh bền chặt, đã trải qua thử thách trên dưới năm sáu trăm năm qua”.
Chùa làng là nơi sinh hoạt bình đẳng, đó là nơi tụ họp cả làng, và ai cũng có thể đến chùa cầu nguyện. Ngày xưa, ngôi đình chỉ là nơi dành cho nam giới đến hội họp, còn chùa là nơi luôn mở rộng cửa đón nhận tất cả mọi người. Ngôi chùa làng đã in dấu trong tâm trí của bao thế hệ với hình ảnh thầy trụ trì hiền hậu với tiếng chuông chùa mỗi sớm, và mỗi chiều vang lên trong không gian quê yên bình, dường như nhắc nhở mọi người hãy sống thuận hòa, biết chăm lo cày cấy để có cuộc sống no ấm.
Về mặt kiến trúc, ngôi chùa làng thường được xây theo kiểu kiến trúc chữ Công, chữ Đinh, hay chữ Tam tùy theo công đức đóng góp. Ngôi chùa làng thường không có cửa hoặc có cửa nhưng không bao giờ đóng, có khi nhà chùa chỉ xây dựng hai trụ biểu tượng trưng cho chiếc cổng. Vào ngày lễ lớn như rằm tháng Tư, lễ, Tết, nam nữ trong làng và những người lớn tuổi thường đến chùa lễ Phật và sau đó xin một lời Phật dạy được các thầy chùa trích ra từ những bài kinh thành những câu răn dạy lối sống ở đời như hai câu đối ở cổng chùa Giác Lương (Làng Hiền Lương-xã Phong Hiền-huyện Phong Điền)
“ Vô diệt vô sanh tuy vạn kiếp nhất bất cổ.
Nhược hiển nhược ẩn thông bách phước tứ vu kim”
Tuy là chùa làng nhưng nhiều ngôi chùa có kiến trúc lớn. Nổi bật như chiếc cổng tam quan của chùa Giác Lương. Cổng chùa được xây theo lối kiến trúc vọng lâu, phía trên là lầu, phía dưới là cổng. Những chi tiết kiến trúc và trang trí trên chiếc cổng này đều cho người xem một cảm xúc hoài cổ. Vết thời gian để lại dấu rêu phong trên bề mặt nhưng vẫn không làm mờ nét tài hoa mà người thợ xưa đã để lại trong từng chi tiết nhỏ. Ở mặt hổ phù và hoa sen được khảm sành sứ thật sống động gợi nhớ về nét tinh hoa của làng nghề khảm sành sứ ở Huế. Bên trong không gian này, chùa xưa đem lại sự bình an trong lòng người viếng cảnh.
Trong đời sống cộng đồng của người dân Việt, chùa làng trở thành tâm điểm của cả làng. Vào các dịp lễ hàng năm, Tết người dân trong làng đến thắp hương cầu nguyện. Người dân quê hiền lành cùng với những lời cầu nguyện mùa màng tươi tốt, cuộc sống ấm no hạnh phúc, cũng chính là lời cầu nguyện mẹ cha sức khỏe, và gia đình yên vui trong các ngày lễ lớn như Vu Lan. Chùa làng đã trở thành một mái ấm tinh thần của cư dân cả làng. Ai cũng có thể đến đây thỉnh một tiếng chuông, và thắp hương lễ Phật, tìm sự bình yên và thanh thản trong tâm hồn. Từ những dịp gặp gỡ tại chùa mà tình bà con, và tình làng nghĩa xóm được thắt chặt hơn. Nếp sống của làng và của gia đình được giữ gìn bởi những vị tộc trưởng.
Chùa làng cũng là nơi xuất phát nhiều danh sư. Như từ ngôi chùa làng An Khánh (thuộc làng Dã Lê Chánh – xã Thuỷ Vân – thị xã Hương Thuỷ) nhiều danh sư đã từng tu tập tại đây như nhà sư Nguyễn Văn Quý- trụ trì chùa Pháp Vân – nơi tổ chức cuộc biến động (nhà Nguyễn gọi là Giặc chày vôi) chống vua Tự Đức năm 1866, Hoà thượng Thanh Thái Huệ Minh (vị tổ thứ 4 chùa Từ Hiếu), Hoà thượng Giác Nhiên (Chùa Thuyền Tôn), Sư bà Diệu Hương (khai sơn ni viện Diệu Đức), Hoà thượng Thích Mật Hiển (chùa Trúc Lâm).
Chùa làng còn là nơi gắn liền với nhiều danh nhân. Thuộc địa phận xã Hương Xuân – Hương Trà, Thanh Lương là một trong những làng cổ của Huế, nơi đây có nhiều người đỗ đạt cao và làm quan to. Ngôi chùa làng Thanh Lương được xây theo kiểu chùa cổ của Huế. Xa xưa, dân trong làng dễ dàng nhìn thấy chiếc cổng chùa xây theo lối cổ lâu (hai tầng).
Đặc biệt, chùa làng Thanh Lương có thờ một danh nhân, ông Đặng Văn Hoà. Ông làm quan nhưng thấm nhuần đạo Phật, cúng dường nhiều chuông và tượng Phật cho các chùa ở vùng đất Hương Trà như chùa Bác Vọng Tây, Bác Vọng Đông, Hoà Viện, , Hiền Sĩ, Thanh Lương.
Tại chùa làng Thanh Lương, ông Đặng Văn Hoà còn tiến cúng một tấm bia đá, phía trên tấm bia này khắc ghi lịch sử của làng, và các vị khai canh, khai khẩn và tên tuổi những người có công. Mọi thứ đều còn nguyện vẹn cho đến ngày hôm nay.
Ngôi chùa như là nơi che chở, và chia sẻ cũng như an ủi con người trong những lúc vui buồn và cả chuyện buồn sinh tử. Thầy trụ trì chùa làng là người đứng ra lo liệu về mặt tâm linh, và cầu kinh cho người quá cố theo phong tục của những người theo đạo Phật. Cứ thế, tình cảm của dân làng và ngôi chùa làng cứ thế dày thêm theo năm tháng.
Ngày nay, ngôi chùa làng ở các miền quê không còn cảnh “tranh tre nứa lá” mà đã được xây dựng kiên cố, và thờ phụng trang nghiêm- đó là một kiến trúc không thể thiếu ở các làng quê Việt. Đây là nơi mà mỗi sớm mai hay khi hoàng hôn, tiếng chuông chùa ngân nga lưu giữ tình quê, cho ai dù ở bốn phương trời, nhớ về quê cũ vẫn mong được nghe một tiếng chuông chùa, ngắm nhìn làng quê trong buổi hoàng hôn với những cánh cò vội vã bay về tổ ấm.
Báo Thừa Thiên Huế