Xây dựng các giải pháp cho lâm nghiệp cộng đồng ở Việt Nam
Xã hội Huế – Ngày 3-4, tại TP Huế, Tổng cục Lâm nghiệp – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND tỉnh Thừa Thiên – Huế và các tổ chức quốc tế liên quan tổ chức Hội thảo quốc tế về “Lâm nghiệp cộng đồng ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng phát triển chính sách”.
Hội thảo đã thu hút hơn 100 chuyên gia, các nhà khoa học, nhà quản lý trong lĩnh vực lâm nghiệp trong nước và đại diện các tổ chức lâm nghiệp trong nước và quốc tế tham dự.
Hội thảo đã giới thiệu những bài học kinh nghiệm từ kết quả thí điểm mô hình quản lý rừng cộng đồng đã và đang áp dụng ở 10 địa phương trên toàn quốc thông qua thực hiện dự án tăng cường lâm nghiệp cộng đồng ở Việt Nam; đồng thời trình bày các tham luận chia sẻ về bài học kinh nghiệm và sáng kiến trong quá trình phát triển lâm nghiệp cộng đồng của các nước trong khu vực như: Malaysia, Ấn Độ, Thái Lan… Đây là cơ hội để các nhà khoa học, nhà quản lý lâm nghiệp ở Việt Nam trao đổi, học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm với bạn bè quốc tế, xây dựng các giải pháp cho lâm nghiệp cộng đồng ở Việt Nam.
Theo Cục Kiểm lâm, tổng diện tích đất có rừng ở Việt Nam hiện nay là hơn 13,5 triệu ha, chiếm 40,8% tổng diện tích đất của cả nước. Đến nay, diện tích rừng được chính thức giao cho cộng đồng quản lý chỉ chiếm khoảng 2,2% tổng diện tích rừng của cả nước. Tuy nhiên, trên thực tế, diện tích rừng giao cho cộng đồng quản lý lại lớn hơn rất nhiều, ước chiếm khoảng 20% tổng diện tích rừng ở Việt Nam. Cục Kiểm lâm lý giải, ngoài diện tích rừng giao trực tiếp cho cộng đồng quản lý thì còn có diện tích rừng tạm giao cho các xã quản lý và giao lại cho cộng đồng.
Các tỉnh, thành phố trong cả nước có rừng đều khẳng định, giao rừng cho cộng đồng quản lý có vai trò nhất định trong việc bảo vệ và phát triển rừng. Khảo sát ở nhiều địa phương cho thấy: rừng được cộng đồng quản lý thì số vi phạm cây gỗ và lâm sản ngoài gỗ là rất ít. Cộng đồng còn bảo vệ được diện tích rừng đã giao không để xảy ra xâm lấn và hầu hết các vụ vi phạm cây lấy gỗ đều được phát hiện và xử lý, như ở các thôn: Lũng Vài, Lũng Các (Cao Bằng); Bản Lằn (Sơn la); Suối Lông (Lạng Sơn); thôn Vài (Hòa Bình)…
Tuy nhiên, trong hoạt động chăm sóc và phát triển rừng thì ở hầu hết các cộng đồng đều chưa được chú trọng. Theo ý kiến của người dân, thì do hướng dẫn chăm sóc rừng còn rất chung chung nên không phù hợp với đặc thù của mỗi vùng miền. Điển hình như quy định cần phát bỏ bụi thảm tươi để rừng phát triển tốt hơn. Nhưng ở nhiều địa phương, bụi thảm tươi nhiều khi là cây thuốc do vậy người dân hạn chế phát bỏ. Vì phát bỏ thì sẽ làm nguồn dược liệu bị suy kiệt. Kinh phí để hỗ trợ cho phát triển rừng ở cộng đồng cũng còn quá thấp, chỉ từ 10 nghìn – 20 nghìn đồng/ngày công. Ở một số địa phương, từ năm 2010 đến nay, người dân vẫn chưa nhận được tiền hỗ trợ phát triển rừng nên không có động lực để tiếp tục chăm sóc rừng.
Tại các địa phương thực hiện việc giao rừng cho cộng đồng quản lý cũng đã đề xuất: cần nhanh chóng rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện khung pháp lý quản lý rừng theo cộng đồng. Hình thức quản lý rừng theo nhóm hộ cần được chính thức công nhận trong các văn bản pháp quy để tạo cơ sở pháp lý triển khai trên thực tế. Việc giao đất rừng cho cộng đồng cần tránh áp đặt, rập khuôn mà nên thiết lập theo quy trình cơ chế “mở” để cộng đồng và địa phương tự thảo luận, lựa chọn hình thức quản lý rừng. Cần nhanh chóng triển khai hoạt động chi trả dịch vụ môi trường rừng ở những nơi có lưu vực và tăng hỗ trợ bảo vệ phát triển rừng. Xây dựng và điều chỉnh quy ước quản lý rừng cộng đồng để tăng hiệu lực bảo vệ rừng; giao rừng gắn với hỗ trợ và giám sát.
Nguồn: baomoi.com