Bí ẩn… Lăng Sọ
Văn hóa Huế – Ai ở xứ Huế quan tâm đến chuyện hưng vong của triều Nguyễn đều biết di tích lịch sử Lăng Sọ gắn liền với nhiều chuyện ly kỳ nhuốm “mùi” binh đao khốc liệt và đậm chất huyền linh. Lý lịch của Lăng Sọ đậm nét của sự hận thù, toát đạo hiếu nghĩa của tình phụ tử và tính khảng khái của bậc quân vương “ơn đền – tội phạt”.
Lăng Sọ – đúng như tên gọi nghĩa đen của nó, là nơi an táng sọ người. Dân gian đồn rằng chủ nhân của chiếc đầu lâu được an táng ở cổ mộ từng bị nhà Tây Sơn quật mồ là con của một vị chúa và là thân phụ của một vị vua. Một người quyền cao chức trọng như thế cớ sao chỉ được chôn cất phần đầu, còn phần thi thể thì nơi đâu, vì sao lại có sự lạ như vậy?!
Vị quân vương bạc phận
Từ nội thành Huế, đi lên hữu ngạn sông Hương khoảng 8km người ta sẽ gặp khu lăng mộ bề thế nằm ven đường, ẩn dưới rừng thông đại thụ với bảng chú giải “Lăng Cơ Thánh”. Quốc sử triều Nguyễn giải thích rằng “Cơ” có nghĩa nền tảng và “Thánh” là đạo đức thánh thiện. Khi được ghép với nhau, cụm từ Cơ Thánh hàm ý khó lòng lay chuyển đạo đức thánh thiện của các vị hoàng đế triều Nguyễn.
Lăng Cơ Thánh được dân gian quen gọi là Lăng Sọ. Một vài chú dẫn của các bậc cao niên và cả trong chính sử triều Nguyễn cho chúng tôi biết rằng chủ nhân của Lăng Sọ chính là Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng đế, con trai thứ 2 của Chúa Võ Vương, thân phụ của Vua Gia Long, người sáng lập vương triều Nguyễn với 13 đời vua trị vì trong 143 năm, mà vị vua cuối cùng là Hoàng đế Bảo Đại.
Thời gian và những biến chuyển của thời cuộc đã bào mòn, làm hư hại khá nhiều công trình ở Lăng Sọ nhưng không vì thế mà hủy đi vẻ hùng tráng và sự thơ mộng ở nơi an nghỉ ngàn đời của thân phụ vị vua vốn nổi tiếng về tài thao lược và ý chí phục quốc. Lần theo sử liệu, mới biết năm 1765, khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát băng hà (Võ Vương, vị chúa Nguyễn thứ 8). Lẽ ra theo di chiếu tiên vương thì người con trai thứ 2 là Nguyễn Phúc Luân nối ngôi. Nhưng quyền thần lúc bấy giờ là tể tướng Trương Phúc Loan cùng một số gian thần lộng quyền sửa đổi di chiếu, giam Nguyễn Phúc Luân vào ngục và lập người em nhỏ tuổi hơn là Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi để dễ bề giám sát (lên ngôi lúc 12 tuổi, bị quân tây Sơn sát hại năm 1777).
Tháng 10/1765, vì lo buồn và vì bạo bệnh nên Nguyễn Phúc Luân qua đời ở phủ đệ, hưởng dương 33 tuổi, để lại 10 người con (6 nam, 4 nữ), trong đó có Nguyễn Ánh, tức Vua Gia Long. Một số tư liệu nói rằng trong số 6 hoàng nam của Nguyễn Phúc Luân thì có 4 người bị quân Tây Sơn giết, một người con chết lúc nhỏ, chỉ hoàng nam cuối cùng là Nguyễn Ánh còn sống. Khi lên ngôi, Gia Long đã suy tôn cha là Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng đế.
Lăng Sọ như những lăng vua chúa ngày trước tọa lạc trên đồi cao, lưng tựa núi, trước mặt có sông Hương làm “tự thuỷ”, hai bên có núi chầu làm thế “tay ngai” (tả long hữu hổ). Khu vực tẩm (nơi chôn chiếc sọ Chúa Nguyễn Phúc Luân) được bao bọc bởi tường thành khổng lồ, quy mô hoành tráng với nhiều công trình nhưng phần lớn đã bị chiến tranh hủy hoại, chỉ còn lại khu vực chính, nơi có nấm mồ hình vuông, 3 tầng chôn sọ Chúa Nguyễn Phúc Luân vẫn nguyên vẹn. Trước và sau mộ đều có bia đình đắp nổi hình rồng 5 móng, biểu hiện của bậc quân vương. Sự tài hoa của người thợ ngày trước giúp người ghé thăm nhận thấy con mãnh long này rất đặc biệt, nó có vẻ già nua, u uất nhưng lại toát quyền uy hơn những mãnh long tại các lăng vua Khải Định, Tự Đức, Thiệu Trị…
Sử nhà Nguyễn ghi Lăng Thoại Thánh được xây từ năm 1765, 25 năm sau lăng bị quân Tây Sơn quật, đến năm 1808 được Vua Gia Long cho xây lại ngay vị trí cũ. “Lăng Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng đế gọi là Lăng Cơ Thánh, ở núi Hưng Nghiệp, phủ Thừa Thiên. Bảo thành cao 6 thước 3 tấc, chu vi 28 trượng, xây gạch, trước mở một cửa, còn đằng trước làm bái đình hai cấp, tả hữu có lan can, phía đông làm điện Canh Y, phía tây làm Thần Khố, đều ba gian” – trích sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ do nội các triều Nguyễn biên soạn.
Trong gió lộng chiều tà, thả mình dưới gốc thông đại thụ hơn 200 năm tuổi với thân rễ u nần và thắp nén hương cho ngôi cổ mộ khổng lồ vốn dĩ chỉ có chiếc sọ của thân phụ Vua Gia Long, không khí liêu trai, có phần buồn thảm. Tiếng thông reo lao xao trong gió chiều như muốn kể lại câu chuyện buồn của vị “con chúa cha vua” lúc sống gặp tai ương, về trời lâm khổ nạn để rồi mộ phần bị bươi quật, xương cốt bị ném xuống sông, nỗi buồn đau đến khôn tả!
Chính sử kể rằng: năm 1790, tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Ngu đã cho quân quật mồ, bới mộ và bốc xương cốt của vị chúa đã mất ném xuống khúc sông Hương đối diện lăng. Đang lúc đó thì tướng Ngu hay tin tư dinh của mình bị bốc cháy nên bỏ dở việc kéo quân về dập lửa. Nhân cơ hội ấy, một ngư dân làng Cư Chánh vốn có tình cảm với vị chúa bạc phận đã cùng các con nhảy xuống mò mẫm dưới sông sâu và vớt được hài cốt của vị chúa, chôn cất cẩn trọng. Năm 1801, tiến công vào Huế, nhận được tin ấy, Vua Gia Long đã chọn ngày lành tháng tốt an táng xương cốt thân phụ vào chỗ cũ và đến năm 1808 (có tư liệu ghi năm 1806) thì tiến hành xây dựng lăng mộ, đặt tên là Thoại Thánh, tức Lăng Sọ ở khu vực hiện tại.
Hành trình nhận cốt nhục của vua Gia Long
Quanh chuyện Chúa Nguyễn Phúc Luân bị quật mồ, dân gian lưu truyền truyền thuyết khác. Điều này được ông L.Cadière (Hội truyền giáo hải ngoại Paris) ghi chép vào năm 1923: “Xương cốt của chúa đã bị nhà Tây Sơn ném xuống sông, ngay trước mặt lăng hiện nay. Vào một đêm nọ, một ngư dân tên Nguyễn Ngọc Huyên khi kéo chiếc vó của mình lên thì thấy trong vó có một sọ người. Người ngư dân ném cái xương sọ đi xa, lần thứ 2 xương sọ lại xuất hiện trước chiếc vó của mình. Người ngư dân run sợ ném chiếc sọ đi và khấn thầm “nếu đây là chiếc sọ của ngài nào có quyền lực linh thiêng thì xin trở lại trong vó của tôi”.
Và lần thứ 3, chiếc xương sọ lại xuất hiện. Thế rồi người ta cho rằng đó chính là xương sọ của hoàng đế và để nhận ra điều này, Vua Gia Long đã rạch cánh tay cho một giọt máu nhỏ lên xương sọ, ngay tức khắc giọt máu được chiếc xương khô hút lấy một cách khao khát, điều này đã minh thị tình máu mủ của cha con không thể nghi ngờ gì nữa”.
Rời khu vực nơi an táng chiếc sọ của Chúa Nguyễn Phúc Luân, chúng tôi tiến về phía trước, lần về phía bờ sông, những mong bắt gặp hình ảnh của hơn 200 năm trước, khi Vua Gia Long (sau khi dẹp nhà Tây Sơn, chúa Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu Gia Long) cùng triều thần long trọng lập hương án ở khu vực Lăng Sọ rồi đích thân vua cầm dao rạch tay trích lấy máu để thử mối liên hệ máu mủ giữa mình và chiếc sọ người được ngư dân Nguyễn Ngọc Huyên tìm thấy. Để rồi khi thấy chiếc sọ hút máu một cách khát khao, vị quân vương bật khóc trong sự vỡ òa của triều thần. Câu chuyện đậm chất liêu trai, huyền bí được ghi chép trong sử sách triều Nguyễn, được lưu truyền trong nhân gian như muốn truyền gửi thông điệp về tình phụ tử, về đạo làm con, bất kể người đó là vị vua đứng đầu thiên hạ nhưng luôn bỏng cháy nỗi hoài nhớ bóng hình người cha đã khuất đến lúc chết vẫn còn gặp sóng gió, tai ương!
Bên bờ sông Hương trước lăng Thoại Thánh, chúng tôi cứ thế miên man trong những ghi chép của người xưa về thời khắc Vua Gia Long nhận ra di cốt của phụ thân. Chuyện kể rằng sau khi làm lễ an táng long trọng chiếc sọ của thân phụ, Gia Long với niềm tin dưới đáy sông trước Lăng Sọ còn xương cốt của đấng sinh thành đã ban lệnh lấp toàn bộ hữu ngạn trước mặt lăng, xem đó là nấm mồ và bày biện hương án cúng tế linh đình, trang trọng. Khi mọi việc hoàn tất, Vua Gia Long đã cho đại thần mời gặp ông Nguyễn Ngọc Huyên, người tìm ra chiếc sọ của thân phụ rồi ban thưởng trọng hậu, phong tước cho ông này cùng các con cháu. Khi ông Huyên qua đời, triều đình đã ban đặc ân, cho lập miếu thờ nằm bên hông Lăng Sọ.
Tính từ thời điểm mộ Chúa Nguyễn Phúc Luân bị tướng Tây Sơn quật mồ đến nay đã 222 năm, ngần ấy thời gian với quá nhiều biến chuyển của thời cuộc làm thay đổi vận mệnh của đất nước đủ để khép lại nhiều câu chuyện của một thời quá vãng. Nhưng với Lăng Sọ, những hiện thực lịch sử khốc liệt, ly kỳ, huyền bí ngày nào vẫn được người dân xứ Huế nằm lòng, lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Hôm đến viếng Lăng Sọ, thật bất ngờ khi chúng tôi thấy ngôi cổ miếu nằm bên hông lăng cổ kính, ẩn dưới mấy gốc đại thụ cội rễ u nần. Hỏi ra mới biết đấy là miếu thờ người ngư dân nhờ vớt được sọ của thân phụ Vua Gia Long mà được phong quan, khi chết được thiên tử phá lệ cho lập miếu thờ cạnh mộ phần thân phụ. Ngôi miếu cổ xây bằng bê-tông, mái xuôi hình chữ V úp ngược, bên trong hương án có hình ảnh kỳ lạ, đó là hình con hạc cách điệu trong thế vờn mây sống động.
Một số tư liệu của người Pháp khi đến quan chiêm tại đây ghi rằng cái am ấy và những cổ thụ là nơi trú ẩn của các hiện tượng huyền hoặc: “Vào ban đêm, những nữ yêu tinh ẩn trú thường xuất hiện dưới ánh trăng, mang áo quần trắng và đầu bịt một cái khăn xanh nhảy múa ở giữa sân lớn lát gạch trước lăng”. Ấy nhưng theo các bậc cao niên đang sống quanh khu vực Lăng Sọ, sở dĩ có lời đồn ấy nhằm tránh việc khu lặng mộ thân phụ Vua Gia Long bị kẻ xấu quấy rối, làm mất tính thiêng linh.
Các bậc cao niên cũng kể rằng thời cha ông mình có truyền lại để canh giữ lăng, triều đình lập nên đội quân hộ lăng, biên chế quan đại thần nhị phẩm cả văn lẫn võ ngày đêm túc trực không cho bất kỳ ai đến gần. Và để cho nơi an nghỉ ngàn đời của vua cha thêm phần bình yên, tươi lạc, đích thân Vua Gia Long và sau đó là Vua Minh Mạng đã ban chiếu chỉ, đôn đốc việc trồng thông khắp khu vực này cũng như cúng nhiều vật quý như đồ tự khí bằng vàng, bạc, đồng, trang trí cành vàng lá ngọc quanh khu tẩm (mộ).
Tồn tại đến nay đã hơn 200 năm, qua bao biến chuyển của thời cuộc, những đồ thờ tự quý giá ở Lăng Sọ không còn nữa nhưng dù sao, sự tồn tại của ngôi lăng, nơi yên nghỉ của vị “con chúa cha vua” với tường thành vững chãi qua trăm năm vẫn bao bọc khu tẩm có hình dáng lạ kỳ, và đặc biệt là những gốc thông đại thụ vững chãi, xanh mướt cũng đủ để an ủi thế nhân lắm rồi. Nhất là với những ai quan tâm đến triều Nguyễn xưa trong giai đoạn đất nước lâm vào cảnh nội chiến khốc liệt, mà cuộc chiến giữa Vua Gia Long và Vua Quang Trung là minh thị đậm nét nhất!
Theo Nguyễn Phước Tộc giản yếu, 6 công tử con Chúa Nguyễn Phúc Luân gồm Nguyễn Phúc Cao (thụy phong Tương Dương Quận công), Nguyễn Phúc Đồng (thụy phong Hải Đông Quận Vương), Nguyễn Phúc Ánh (Vua Gia Long), một người con mất lúc còn nhỏ không rõ tên, Nguyễn Phúc Mân (thụy phong An Biên Quận công) và Nguyễn Phúc Điền (thụy phong Thông Hóa Quận Vương).
4 công nữ gồm: Ngọc Tú, Ngọc Đào, Ngọc Toàn và Ngọc Du (lấy Võ Tánh, có công giúp Nguyễn Ánh chống nhà Tây Sơn, tuẫn tiết tại thành Bình Định vào năm 1801, được Vua Gia Long sau khi chính thức lập nên triều Nguyễn truy phong Dực vận công thần Thái úy Quốc công).
Nguồn: thethaovietnam.vn