Thực hư chuyện “phát tích” ở điện Hòn Chén
Xã hội Huế – Con sông dài thơ mộng, những khúc hát dân ca và điệu hò đằm thắm… đã tạo nên nét thơ mượt mà, riêng có ở nơi sông Hương xứ Huế. Bên cạnh đó cũng không kém phần uy nghi, linh thiêng là những ngôi điện với bao chuyện huyền bí.
Tại thượng nguồn sông Hương, đoạn chảy qua địa phận xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế, có một ngôi điện tên là Hòn Chén (còn có tên là điện Huệ Nam), một trong những thánh địa của đạo Mẫu.
Hằng năm, cứ vào dịp Xuân tế (tháng ba), Thu tế (tháng bảy), người dân khắp miền Trung nô nức đi lễ hội điện Hòn Chén. Đã từ lâu, câu nói quen thuộc này được từng người dân Huế nhắc đến khi nghĩ về lễ hội như một dịp tri ân với người cha sông núi, người mẹ xứ sở. Bởi rằng, thần linh cũng đều sinh ra từ cha và mẹ. Điện Hòn Chén được cho là nơi Thánh Mẫu Thiên Y A Na giáng trần, hoá thân thành người mẹ xứ sở trong tâm thức người Việt. Và xung quanh ngôi điện này có vô số giai thoại ly kỳ theo kiểu chẳng nơi nào có được.
Huyền bí chuyện “phát tích”!
Nhiều tài liệu để lại, có nhiều truyền thuyết về câu chuyện phát tích của bà Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Theo người Chăm, Thánh Mẫu Thiên Y A Na là sự hiện thân của nữ thần Pô Nagar; còn người Việt thì Việt hóa thành Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Nữ thần Poh Nagar do bọt nước biển và ánh mây trời sinh ra ngoài biển khơi. Một hôm, nước biển dâng cao đưa bà vào bến sông Yjatran ở Kauthara (Cù Huân). Sấm trời và gió liền nổi dậy báo cho muôn loài biết tin bà giáng thế. Tức thì, nước trên nguồn dồn lại thành sông chảy xuống đón mừng bà, và núi cũng hạ mình thấp xuống để đón rước bà. Khi bà bước lên bờ, thì cây cong xuống để tỏ lòng thần phục, chim muông kéo đến chầu hai bên đường, và hoa cỏ cũng xinh tươi rực rỡ hơn để điểm hương cho mỗi bước chân bà đi. Rồi nữ thần Poh Nagar dùng phép hóa ra cung điện nguy nga, hóa ra trầm hương cùng lúa bắp…
Nhiều phép thuật, bà cũng rất nhiều chồng. Nơi hậu cung của bà, có đến 97 ông. Nhưng trong số đó, chỉ ông Pô Yan Amo là có uy quyền hơn cả. Sống với ngần ấy ông chồng, nhưng bà chỉ sinh được 38 người con gái. Những người con ấy, sau đều thành thần, trong số có ba người được bà truyền nhiều quyền phép, đó là Pô Nogar Dara, Rarai Anaih (cả hai được người dân vùng Phan Rang tôn thờ) và Pô Bia Tikuk (được người dân Phan Thiết tôn thờ).
Vua Đồng Khánh hạ mình xưng thần
Sử có chép, năm 1885, sau khi lên ngôi thay vua Hàm Nghi, vua Đồng Khánh đã cho tu sửa lại điện Hòn Chén và… “hạ mình” xưng thần dưới trướng của bà Thiên Y A Na. Theo truyền thuyết kể lại, chính bà Thiên y A Na đã cho hoàng tử biết ngày đăng quang và ngày tạ thế sau 3 năm.Sự thật đúng như lời tiên đoán của bà. Thấy linh nghiệm, sau khi lên ngôi, vua Đồng Khánh xây lại đền khang trang, đổi tên ngôi đền là Huệ Nam điện để tỏ lòng biết ơn Thánh Mẫu. (Huệ Nam nghĩa là ban ân huệ cho nước Nam, vua Nam).
Sách Đại Nam thực lục còn chép: “Vua khi còn ẩn náu thường chơi xem núi ở đây. Mỗi khi đến cầu khẩn, phần nhiều có ứng nghiệm. Đến nay vua phê bảo rằng: Đền Ngọc Trản thực là núi Tiên Nữ, linh sơn sáng đẹp muôn đời, trông rõ là hình thế như con sư tử uống nước sông, quả là nơi chân cảnh thần tiên. Đền ấy nhờ được linh khí đắc nhất, cứu người độ đời, giúp cho phúc lợi hàng muôn, giúp dân giữ nước. Vậy cho đổi đền ấy làm điện Huệ Nam để biểu hiện ơn nước một phần trong muôn phần”.
Đến khi đất Kauthara thuộc về người Việt, thì nữ thần Poh Nagar cũng trở thành vị nữ thần của người Việt với tên gọi là Thiên Y A Na và sự tích của bà cũng được Việt hóa. Tuy những lời kể có đôi nét khác nhau, nhưng đại để như sau: Xưa kia tại núi Đại An (nay là Đại Điền), có hai vợ chồng tiều phu già không con, trồng rẫy dưa. Dưa chín, thường bị hái trộm. Rình rập, một đêm ông lão bắt được thủ phạm.
Khi biết được kẻ hái là một cô gái nhỏ xinh đẹp nhưng mồ côi, ông liền mang về nuôi. Không ngờ, cô gái ấy vốn là tiên nữ, vì lý do nào đó, phải giáng trần! Một hôm, mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều, khiến tiên nữ thêm nhớ cảnh tiên xưa. Cho nên, cô lấy đá và hoa lá tạo thành một hòn giả sơn (hòn non bộ).
Cho rằng việc làm đó không thích hợp đối với một phụ nữ, nên người cha nuôi có nặng lời quở mắng. Vì vậy, nhân thấy một khúc kì nam đang trôi dạt, cô bèn biến thân vào khúc cây ấy, để xuôi ra biển cả rồi tấp vào bờ biển nước Trung Hoa.
Mùi hương từ khúc kì nam lan tỏa khắp nơi, khiến nhiều người đến xem, nhưng không một ai nhấc lên nổi. Thái tử nước ấy, nghe tin đồn tìm đến, rồi nhẹ nhàng vác khúc gỗ kia mang về cung. Đêm nọ, thái tử thấy có bóng người lạ ẩn hiện từ khúc cây kì nam. Rình rập mấy đêm, thì chàng bắt được.
Nghe cô gái xinh đẹp tự xưng mình là Thiên Y A Na và khi nghe chuyện của nàng xong, ngay hôm sau, Thái tử đã tâu với vua cha cho phép cưới nàng làm vợ. Sống với Thái tử, Thiên Y A Na sinh được một trai đặt tên là Tri và một gái đặt tên là Quí.
Một hôm, Thiên Y A Na nhớ cảnh cũ người xưa, bèn dắt hai con nhập vào khúc kì nam, vượt biển trở về cố quốc. Khi biết cha mẹ nuôi đã mất, bà cho xây đắp mồ mả, cho sửa sang lại nhà cửa để có chỗ thờ phụng hai ông bà.
Thấy dân chúng ở Đại An hãy còn thật thà, chất phác; bà liền đem những gì học được ở quê chồng, như phép tắc, lễ nghi ra chỉ dạy và dạy cả những việc như cày cấy, kéo sợi dệt vải… để người dân quê mình biết cách mưu sinh. Ít lâu sau, một con chim hạc từ trên mây cao bay xuống, rước bà và hai con về cõi tiên. Nhớ ơn đức, nhân dân địa phương cùng nhau xây tháp, tạc tượng phụng thờ.
Khi đến Đại An, không tin Thiên Y A Na và hai con đã rời bỏ cõi tục, bộ hạ của thái tử đã tra khảo người dân rất dữ, vì ngỡ họ cố tình che giấu mẹ con bà. Bị oan ức và đau đớn, nhiều người dân đã thắp hương cúng vái bà. Liền đó, một trận cuồng phong nổi dậy, cát chạy đá bay… và toàn bộ những người đến từ phương bắc đều bị cát vùi thây, thuyền bè của họ cũng bị đá đánh chìm hết…
Theo lời người xưa truyền lại, thì những cụm đá ở trước cửa tháp Bà (tức tháp Po Nagar ở Nha Trang), giữa cửa sông Cù, là những viên đá đã đánh đắm cả đoàn thuyền vừa kể. Sự tích này đã được Kinh lược Phan Thanh Giản chép lại thành bài ký, khắc lên bia đá, dựng sau tháp Bà ở Nha Trang vào năm Tự Đức thứ 9 (1856).
Ngoài ra, vào năm 1925, bác sĩ Sallet chép lời người dân địa phương kể lại, thêm thắt vài chi tiết, để có một sự tích nữa, tóm gọn như sau: Một thái tử Trung Hoa qua Việt Nam tìm vợ, gặp khúc trầm to, muốn đưa lên thuyền, nên cho lính chặt ra làm ba khúc. Tức thì, giông bão nổi lên làm đắm thuyền. Khúc trầm trôi ngược vào sông, tấp vào khu vườn ở làng Bình Thủy (Phan Rí). Do được báo mộng, chủ vườn thức dậy, thì thấy khúc trầm to có ghi chữ Thiên Y (Thiên Y A Na) và hai khúc trầm nhỏ (hai đứa con), và ông đã đem lên cất miếu thờ. Lâu ngày, gỗ trầm hóa đá.
Nông dân bỗng thành “ông hoàng bà thánh”…
Thuyền hoa cũng nói lên được nhiều điều. Giàu thì thuyền lớn, trang hoàng lộng lẫy, kèn trống chát tai, nghèo thì đơn giản hơn một chút, thậm chí thuyền không có một bông hoa, tiếng kèn nào cũng có thể tham gia hội. Nhưng hình như không có ai vì thế mà buồn, bởi “đi lễ hội, đến với Mẹ đôi khi chỉ cần tấm lòng thành là đủ” – chị Liên, một trong những chủ thuyền tâm sự.
Đứng dưới chân núi Ngọc Trản, tục truyền rằng nơi đây một năm hai lần đức Thánh mẫu Thiên Y A Na giáng trần để ban phước lành cho chúng sinh đó là cứ vào dịp Xuân tế (tháng ba), Thu tế (tháng bảy). Vào những ngày này hàng chục thuyền nhỏ, thuyền to san sát tấp nập như phiên chợ nổi Cái Răng. Người ngườì nô nức kéo nhau đi trẩy hội. Với một mong muốn là cầu cho gia đình được ấm no, hạnh phúc và gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.
Chị Nguyễn Thị Hoa, 47 tuổi, tiểu thương bán cá ở chợ Hội An, Quảng Nam, giới thiệu với tôi chị là “con” của đức mẹ Thiên Y A Na. Chị cùng với 20 người khác cơm đùm gạo bọc ra Huế trước đó một hôm để chuẩn bị mọi việc. Chị nói: “Dù đi như thế này tốn bạc triệu, nhưng gần 10 năm nay, năm mô tui cũng một năm hai lần ra hầu mẹ để mẹ ban phúc, tạo phước”.
Chị Dương Thị Quế, 32 tuổi, đến từ Quảng Bình lại khác, chị xưng là… lính thánh, tức những người được quyền hầu đồng (lên đồng). Chị kể: “Để làm được lính thánh thì phải có người giới thiệu với chủ am, rồi dâng lễ vật. Tốn kém lắm, nhưng lại vui, và quan trọng nhất là gia đình được bình yên, mình luôn thanh thản”.
Điều buồn cười là phần đông ông đồng bà cốt và con nhang đệ tử chẳng mấy ai rành rẽ sự tích Mẫu, dẫu họ tự nhận là tín đồ thuần thành của Thiên Tiên Thánh giáo. Khác nhiều người nghĩ, với tên gọi này, Thiên chẳng phải trời, Tiên chẳng phải nhân vật yên vui và có nhiều phép mầu.
Chuyên luận Tín ngưỡng dân gian Huế của Trần Đại Vinh (NXB Thuận Hoá, Huế, 1995) ghi nhận: “Cách đặt tên Thiên Tiên Thánh giáo được giải thích là: Thiên là huyện Thiên Bản, Tiên là làng Tiên Hương, tức thôn Vân Cát, làng An Thái, là nơi giáng trần lần thứ hai của Liễu Hạnh công chúa. Hai chữ Thánh giáo thể hiện một nguyện vọng của tổng hội xin thừa nhận tín ngưỡng này như một tôn giáo thiêng liêng.”
Lễ hội điện Huệ Nam thường kéo dài đến 3 ngày với rất nhiều nghi lễ phức tạp. Tôi chỉ nói đến phần hầu đồng, bởi để hướng tới những điều tốt lành trong cuộc sống, người Chăm xưa và sau đó là người Việt đã coi những buổi hầu đồng, rước bóng như là sự tìm về với cội nguồn của tâm linh, sự thăng hoa của tôn giáo phồn thực để tìm sự an ủi, vỗ về ở một thế giới khác. Có đến đây mới thấy sức mạnh, niềm tin của con người vào thế giới thần linh thật lớn lao.
Những “lính thánh” ở điện Hòn Chén thuộc mọi đối tượng và mọi tầng lớp trong xã hội: Từ phụ nữ đến đàn ông, từ trẻ nhỏ đến người già, từ những người buôn bán đến những người nông dân cực khổ, thậm chí là cả tầng lớp trí thức. Họ đến đây với nhiều tâm trạng khác nhau, có người thì muốn cầu cho được bình an, sức khoẻ; có người mong được giàu có, sung túc; người mong được thuận hòa mọi bề, con cái thành đạt.
Người lên đồng, dù nam hay nữ, đều phục trang cực kỳ đặc biệt. Áo mớ ba mớ bảy nhiều màu, thắt lưng kim tuyến, quần thắt chẽn ống, giày vải hoặc hài nhung, tóc chít khăn xếp xanh đỏ, vai khoác lụa là, tai, tay, cổ và cả cườm chân đều đeo vàng bạc, ngọc ngà lấp lánh, mặt nhồi phấn, môi tô son, mắt kẻ chì. Có trường hợp phải bôi mặt đen sì, vai quàng dây leo, eo đóng khố, tay cầm khèn hoặc quấn luôn con… rắn (làm giả bằng rễ cây) nếu nhập vai ông Bảy hay ông Chín Thượng Ngàn. Lại có lúc họ còn đội lốt cọp để làm Hạ Ban, tức thần hổ.
Một vũ điệu khá phổ biến trong hầu giá là múa mồi: dùng tay kẹp ống giấy tròn nhỏ đã tẩm sẵn paraffin/paraffine/thạch chá, đốt cháy phừng phừng, mà uốn éo. Trò múa lửa này trông khá ngoạn mục, nhất là về đêm, tuy nhiên chính nó là nguyên nhân gây ra không ít vụ hoả hoạn làm thiêu rụi miếu đền, nhà cửa!
Hơn bao giờ hết, đây cũng là cơ hội để họ được giải tỏa mọi ẩn ức trong cuộc sống, là nơi để họ được thể hiện bản thân mình. Trong trang phục ngũ sắc, tượng trưng cho kim, mộc, thủy, hỏa, thổ một nông dân quanh năm chân lấm tay bùn như chị Quế ở Quảng Bình bỗng chốc hóa thân thành một bà tiên, ông hoàng đầy uy nghi, phi phàm. Đấy cũng là cách để con người tiếp cận với thần thánh, giúp họ làm những việc, thực hiện những ước mơ, khao khát đã bị đánh cắp trong cuộc sống đời thường.
Theo: Hà Kiều – Như Thuỷ (Dòng Đời)